Tập thể cán bộ Liên doanh Việt – Nga Vietsovpetro đã thành công trong việc nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện công nghệ thu gom, xử lý, vận chuyển dầu thô trong điều kiện đặc thù.
Bằng phương pháp nghiên cứu lưu biến của dầu, phương pháp xử lý nhiệt và hóa phẩm, áp dụng và phát triển công nghệ phù hợp để vận chuyển dầu thô có tính chất lưu biến phức tạp bằng đường ống ở điều kiện ngoài khơi thêm lục địa Việt Nam, tập thể cán bộ Liên doanh Việt – Nga Vietsovpetro đã thành công trong việc nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện công nghệ thu gom, xử lý, vận chuyển dầu thô trong điều kiện đặc thù.
Ứng dụng nhiều công nghệ mới
Đây cũng là kết quả của công trình “Nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện công nghệ thu gom, xử lý, vận chuyển dầu thô trong điều kiện đặc thù của các mỏ Liên doanh Việt – Nga Vietsovpetro và các mỏ kết nối trên thềm lục địa” do TS. Từ Thành Nghĩa và 29 cộng sự thực hiện. Công trình vừa được Hội đồng cấp Nhà nước đề nghị xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN đợt V.
TS. Từ Thành Nghĩa – Tổng Giám đốc Liên doanh Việt Nam Vietsovpetro cho biết: Trên cơ sở nghiên cứu công phu và khoa học, nhóm thực hiện đã cải tiến, đổi mới và sáng tạo ra công nghệ thu gom, xử lý và vận chuyển dầu thô nhiều parafin ở ngoài khơi bằng đường ống, áp dụng cho các mỏ Bạch Hổ và Rồng, khác biệt so với công nghệ truyền thống xử lý, vận chuyển dầu đang được sử dụng trên thế giới.
Công trình ra đời trong hoàn cảnh đất nước bị cấm vận, kinh tế khó khăn, không thể tiếp cận với các công nghệ tiên tiến trên thế giới, nhóm thực hiện đã sáng tạo thành công một tổ hợp các giải pháp công nghệ riêng áp dụng cho điều kiện đặc thù các mỏ của Vietsovpetro vận chuyển hỗn hợp dầu và khí ở điều kiện nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ đông đặc, vận chuyển dầu bão hòa khí, đã làm thay đổi hoàn toàn hệ thống công nghệ thiết kế trước đó, làm cơ sở để vận hành an toàn mỏ Bạch Hổ, Rồng và là tiền đề để đưa các mỏ khác ở bể Cửu Long vào khai thác.
Phòng chuyên môn thực hiện công tác nghiên cứu tại Liên doanh Việt – Nga Vietsovpetro
Theo ông Nguyễn Hoài Vũ – tác giả tham gia thực hiện công trình: Điểm mới của công trình nghiên cứu này là đã đưa ra được giải pháp sử dụng hóa phẩm dùng trong dung dịch khoan sử dụng ở Vietsovpetro để xử lý dầu và vận chuyển thành công bằng được ông không bọc tách nhiệt tử giàn cố định đến tàu chứa xuất dầu. Bên cạnh đó, công trình đã hình thành công nghệ vận chuyển dầu và khí bằng đường ống ở điều kiện nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ đông đặc của dầu, đã làm thay đổi căn bản công nghệ truyền thống vận chuyển dầu nhiều parafin bằng đường ống ở điều kiện ngoài khơi.
Việc nghiên cứu, áp dụng và phát triển công nghệ phù hợp để thu gom, xử lý và vận chuyển dầu khí trong điều kiện đặc thù của mỏ Bạch Hổ nói riêng và thềm lục địa Việt Nam đã hình thành công nghệ vận chuyển dầu với đặc trưng riêng, khác biệt với các công nghệ vận chuyển dầu truyền thống đang được áp dụng trên thế giới. Công trình này đã góp phần nhằm giải quyết một vấn đề đặc trưng nhất trong ngành công nghiệp khai thác dầu khí tại thềm lục địa Việt Nam.
Hiệu quả kinh tế cao
Theo ông Trần Đức Chính – thành viên Hội đồng chuyên ngành Dầu khí: Công trình nghiên cứu đã giải quyết được các vấn đề then chốt và phát triển sáng tạo thành công tổ hợp các giải pháp công nghệ riêng, phù hợp để vận chuyển hỗ hợp dầu khí và khí trong điều kiện dầu nhiều paraffin, nhiệt độ chất lưu vận chuyển thấp hơn nhiệt độ đông đặc của dầu bằng đường ống ngầm, quyết định việc đưa mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng, làm cơ sở kết nối các mỏ khác ở Bể Cửu Long vào khai thác, đưa Việt Nam vào danh sách các nước khai thác và xuất khẩu dầu khí Thế giới. đem lại hiệu quả kinh tế cao cho Việt Nam.
Bên cạnh đó, công trình góp phần rút ngắn thời gian thi công công trình, giảm chi phí đầu tư, giảm mức độ rủi ro của dự án, góp phần đưa các mỏ vào khai thác đúng thời điểm Tính tổng hiệu quả kinh tế trực tiếp do Công trình mang lại đến hết năm 2014 là 780 triệu USD. Bên cạnh đó, góp phần giảm chi phí xây dựng và vận hành khai thác các mỏ nói chung, đưa các khu vực mới của Bạch Hổ - Rồng và các mỏ mới, đặc biệt là các mỏ nhỏ, cận biên ở bể Cửu Long vào khai thác sớm hơn từ 2-3 năm và với chi phí đầu tư ít hơn.
Kết quả nghiên cứu của công trình sẽ tiếp tục được lan tỏa và áp dụng trong tương lai đặc biệt là phương án kết nối cơ sở hạ tầng khai thác hiện có với các mỏ nhỏ và mỏ cận biên, mở ra nhiều cơ hội đầu tư và phát triển của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, góp phần tăng lợi nhuận và tăng thu ngân sách cho Nhà nước.
Theo PGS.TS Lê Phước Hảo – Thành viên Hội đồng chuyên ngành Dầu khí: Cùng với mỏ Bạch Hổ, việc kết nối cơ sở hạ tầng hiện có của Vietsovpetro với các mỏ nhỏ và mỏ cận biên nhờ một phần tổ hợp công nghệ xử lý, thu gom, vận chuyển do cụm công trình để xuất sẽ trở thành một trong số các điểm nhận dạng thương hiệu mạnh của ngành Dầu khí Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Công trình có tác dụng to lớn phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước góp phần quan trọng tạo ra sản phẩm mới của đất nước, Việt Nam có dầu thô để xuất khẩu và phục vụ nhà máy lọc dầu Dung Quất, phục vụ phát triển kinh tế biển, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. GS.TSKH Đặng Văn Bát, Chủ tịch Hội đồng Dầu khí nhấn mạnh.
Công trình nghiên cứu của Vietsovpetro đã có những đóng góp to lớn, quan trọng cho Ngành Dầu khí Việt Nam, cho khoa học - công nghệ dầu khí thế giới, được Nhà nước, các tổ chức khoa học - công nghệ quốc gia và quốc tế đánh giá cao và trao những phần thưởng xứng đáng. Với những kết quả đạt được, công trình đã được cấp Bằng tác giả sáng chế cho công trình “Phương pháp giám độ nhớt và nhiệt độ đông đặc của dầu thô có hàm lượng parafin cao trên các giàn khoan biển cố định”; Bằng độc quyền sáng chế do Cục Sở hữu trí tuệ cho công trình “Phương pháp và thiết bị để xác định vị trí rò rỉ của các ống dẫn ngầm dưới biển hoặc dưới nước”.