Nghiên cứu chọn tạo giống Cà phê vối chất lượng cao cho các vùng trồng cà phê tập trung ở Tây Nguyên
03/06/2025
5 Lượt xem
Việt Nam là nước sản xuất cà phê lớn, với trên 690.000 ha tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên, đạt sản lượng cao nhưng giá trị xuất khẩu (2,6 - 2,8 tỷ USD/năm) chưa thực sự tương xứng do chất lượng cà phê còn hạn chế. Việc nâng cao chất lượng là thách thức lớn, đòi hỏi nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó chọn tạo giống mới chất lượng cao đóng vai trò then chốt, đặc biệt cho công tác tái canh vườn cây già cỗi. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI) đã chọn tạo nhiều giống cà phê vối năng suất cao như TR4, TR9, TR11, TR13, TR14, TR15, TRS1, nhưng các giống này chưa được kiểm định và đánh giá đầy đủ về chất lượng nước uống theo tiêu chuẩn quốc tế (SCA, CQI). Ngoài ra, một số dòng/giống mới do nông dân phát triển tại Tây Nguyên có năng suất và khả năng thích nghi tốt nhưng chưa được nghiên cứu, đánh giá chuyên môn toàn diện về chất lượng, khả năng chống chịu sâu bệnh và hạn hán.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết về phát triển cà phê chất lượng cao nhằm nâng cao giá trị, sức cạnh tranh và tính bền vững của ngành hàng, ThS. Đinh Thị Tiếu Oanh và các cộng sự tại Viện khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên đã thực hiện đề tài: “Nghiên cứu chọn tạo giống Cà phê vối chất lượng cao cho các vùng trồng cà phê tập trung ở Tây Nguyên” nhằm sớm xác định và đưa vào sản xuất các giống cà phê đạt tiêu chuẩn chất lượng cao, phục vụ tái cơ cấu ngành hàng cà phê Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc tạo và chọn lọc vật liệu khởi đầu, xác định giống cà phê vối mới, xây dựng mô hình trình diễn và hoàn thiện quy trình kỹ thuật, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất cà phê tại Tây Nguyên.
Về tạo và chọn lọc vật liệu khởi đầu, nghiên cứu đã chọn được 6 con lai cà phê vối triển vọng chất lượng cao từ 10 tổ hợp lai, bao gồm L2 H24C10, L2 H36C1, L3 H20C7, L4 H6C10, L4 H15C8, và L4 H18C6. Các con lai này thể hiện năng suất bói trung bình 2,6 kg nhân/cây, tỷ lệ tươi/nhân 4,5, khối lượng 100 nhân đạt 20,4g và tỷ lệ hạt trên sàng 16 trung bình 89,5%. Đặc biệt, chất lượng thử nếm theo tiêu chuẩn SCA đạt từ 80,0 - 82,5 điểm và chưa biểu hiện bệnh gỉ sắt trên đồng ruộng. Song song đó, từ 8 tổ hợp lai chịu hạn, nghiên cứu đã chọn được 9 con lai có kiểu hình chịu hạn nổi bật (CH18C5, CH18C16, CH20C10, CH20C22, CH38C20, CH41C17, CH41C26, CH43C4, CH43C8). Cây héo cấp 4 sau 41-46 ngày không tưới, khác biệt rõ so với đối chứng (31-33 ngày). Năng suất bói đạt trung bình 1,73 kg nhân/cây, khối lượng 100 nhân đạt 22,4g, tỷ lệ hạt trên sàng 16 đạt 90,2%, và chưa biểu hiện bệnh gỉ sắt.
Công tác chọn lọc giống cà phê vối mới đã xác định được 8 dòng vô tính triển vọng có chất lượng thử nếm >80 điểm SCA, năng suất vụ bói >3,0 tấn nhân/ha, năng suất kinh doanh 1 từ 4,2 - 4,5 tấn nhân/ha, khối lượng 100 nhân >20,0 g, tỷ lệ nhân trên sàng 16 >85%. Đặc biệt, hai giống cà phê vối mới là Xanh lùn (TS5) và Cà phê dây được chọn lọc nhờ khả năng thích ứng rộng. Các giống này đạt năng suất >3,0 tấn nhân/ha ở vụ bói, >3,8 tấn nhân/ha ở vụ kinh doanh 1 và trung bình giai đoạn kinh doanh >4,5 tấn nhân/ha. Chất lượng thử nếm của cả hai đạt từ 80,0 - 82,5 điểm SCA, khối lượng 100 nhân từ 22,5 - 27,8 g, và tỷ lệ nhân trên sàng 16 >95%.
Kết quả xây dựng mô hình trình diễn trên 30 ha tại 5 tỉnh Tây Nguyên cho thấy các giống mới sinh trưởng tốt và thích ứng rộng. Cụ thể, mô hình 5 ha trồng năm 2018 tại Đắk Lắk đạt năng suất vụ kinh doanh 1 là >3,8 tấn nhân/ha, cao hơn đối chứng (3,22 tấn/ha). Mô hình 25 ha trồng năm 2019 đạt năng suất bói trung bình 3,20 tấn nhân/ha, vượt trội so với đối chứng TR11 (2,48 tấn/ha). Điều tra giai đoạn kinh doanh cho thấy năng suất trung bình của giống Xanh Lùn (TS5) đạt 5,76 - 6,38 tấn nhân/ha và Cà phê Dây đạt 5,67 - 5,71 tấn nhân/ha.
Nghiên cứu cũng đã hoàn thiện quy trình canh tác cà phê chất lượng cao bền vững cho các giống mới trên cơ sở kế thừa các kết quả trước đây và tổng hợp từ mô hình thực địa. Quy trình nhân giống cà phê bằng phương pháp in vitro cho các giống mới cũng được hoàn thiện, kế thừa quy trình công nghiệp đã có và bổ sung các công đoạn cần thiết, sẵn sàng cho việc nhân giống quy mô lớn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, đề tài kiến nghị cần phối hợp với các doanh nghiệp và hợp tác xã sản xuất cà phê chất lượng cao để nhanh chóng chuyển giao và phát triển hai giống cà phê vối mới là Xanh Lùn (TS5) và Cà phê Dây ra sản xuất tại các vùng trồng trọng điểm ở Tây Nguyên. Song song đó, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu bằng cách đánh giá sâu hơn hệ thống thí nghiệm chọn lọc, tập trung sàng lọc các vật liệu khởi đầu và dòng triển vọng để sớm xác định các giống tiềm năng cho các đợt khảo nghiệm và đánh giá tiếp theo. Đặc biệt, cần tiếp tục theo dõi và phân tích dữ liệu từ các mô hình giống mới tại các vùng trồng trong giai đoạn kinh doanh ổn định nhằm làm rõ mối tương quan giữa đặc điểm giống (năng suất, chất lượng, chịu hạn) và điều kiện sinh thái của từng vùng (khí hậu, thổ nhưỡng), từ đó xây dựng được cơ cấu giống chất lượng cao phù hợp, đáp ứng nhu cầu sản xuất cà phê đặc sản tại từng tiểu vùng đặc trưng.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20853/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.