Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm xây dựng cơ chế ký quỹ môi trường đối với các dự án có tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm sự cố môi trường cao
31/05/2025
4 Lượt xem
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam là quốc gia đang phát triển cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường như: Cạn kiệt tài nguyên, mất cân bằng sinh thái, biến đối khí hậu, môi trường ô nhiễm... Điều đó đòi hỏi không thể chỉ áp dụng một loại công cụ trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường mà nó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các loại công cụ mà đặc biệt là các công cụ kinh tế. Ký quỹ môi trường là một trong các công cụ kinh tế hữu hiệu được áp dụng đối với các ngành kinh tế dễ gây ra ô nhiễm môi trường.
Tuy nhiên, xung quanh vấn đề này vẫn còn rất nhiều hạn chế: Ký quỹ môi trường chưa được áp dụng một cách đồng bộ; các quy định về ký quỹ còn chung chung, chưa được quy định rõ ràng đối với từng ngành, từng lĩnh vực…cần tiếp tục nghiên cứu để nhân rộng hình thức ký quỹ môi trường để áp dụng cho hoạt động kinh tế cũng có khả năng gây ô nhiễm và tổn thất môi trường. Việc quy định ký quỹ môi trường sẽ buộc các doanh nghiệp quan tâm hơn đến vấn đề sử dụng những công nghệ an toàn cho môi trường. Mở rộng áp dụng biện pháp ký quỹ môi trường còn tạo cơ sở để đảm bảo tài chính cho hoạt động môi trường ở phạm vi rộng hơn, trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề.
Xuất phát từ nhu cầu đó, ThS. Hoàng Thanh Nguyệt đã phối hợp với nhóm nghiên cứu tại Cục Bảo vệ môi trường miền Nam thực hiện đề tài: “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn nhằm xây dựng cơ chế ký quỹ môi trường đối với các dự án có tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm, sự cố môi trường cao” trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2021.
Mục tiêu của đề tài là nhằm làm rõ được cơ sở khoa học và thực tiễn để đề xuất ký quỹ môi trường đối với các dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao; và đề xuất các điều kiện triển khai công cụ ký quỹ môi trường đối với các đề tài có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao vào thực tiễn tại Việt Nam.
Trên cơ sở tổng quan nghiên cứu về hoạt động ký quỹ môi trường, tính toán, dự báo thiệt hại môi trường, các tiêu chí xác định công nghệ tốt nhất hiện có trên thế giới (Mỹ; Liên minh châu Âu; Tại châu Á - Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ…) và tại Việt Nam, đề tài đã đánh giá, so sánh về các lợi thế và bất lợi của các công cụ kinh tế trong kiểm soát ô nhiễm, phân tích sự giống nhau và khác biệt của công cụ ký quỹ môi trường với các công cụ kinh tế khác (các loại thuế, phí, trợ cấp môi trường, đặt cọc hoàn trả, quỹ môi trường), phân tích sự tương thích của ký quỹ môi trường trong mối quan hệ với các công cụ hành chính, công cụ pháp lý và các biện pháp khác, nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động ký quỹ; Đã tổng quan được tiêu chí xác định đối tượng ký quỹ, phương thức ký quỹ và căn cứ xác định số tiền ký quỹ, cách thức tính toán số tiền ký quỹ, phân tích về những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong việc thực hiện ký quỹ môi trường, quản lý và sử dụng tiền ký quỹ môi trường;
Bằng việc thu thập thông tin có sẵn, điều tra, khảo sát bổ sung tại 63 tỉnh thành trên cả nước bằng phiếu thu thập thông tn về thực hiện ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản; ký quỹ môi trường trong nhập khẩu phế liệu, đề tài đã đánh giá những thuận lợi và khó khăn, thách thức, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả khi áp dụng ký quỹ cải tạo, phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản; ký quỹ môi trường trong nhập khẩu phế liệu tại Việt Nam.
Đề tài đã xác định hệ thống tiêu chí xác định công nghệ tốt nhất hiện có, hệ thống tiêu chí xác định đối tượng phải ký quỹ môi trường, phương pháp tính toán số tiền ký quỹ môi trường. Bên cạnh đó, đề tài đã xây dựng được phương pháp tính toán số tiền ký quỹ môi trường đối với 15 nhóm ngành có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, bao gồm luyện gang, thép; nhiệt điện; khai thác, chế biến khoáng sản; sản xuất giấy, bột giấy; nhuộm; mạ; chế biến mủ cao su; chế biến tinh bột sắn; sản xuất xi măng…
Dựa theo phương pháp tính số tiền ký quỹ bảo vệ môi trường được xây dựng, đề tài đã nghiên cứu, áp dụng thử nghiệm tính số tiền ký quỹ môi trường đối với 03 nhà máy sản xuất thuộc loại hình sản xuất công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao, bao gồm: Nhà máy nhiệt điện đốt than Lee&Man (công suất 125 MW), Cụm mỏ khai thác, chế biến đá xây dựng Tân Đông Hiệp (công suất 4.026.862 m3 /năm (đá nguyên khối)); Nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất (công suất 6.252.000 tấn sản phẩm/năm).
Đối với lộ trình và biện pháp thực hiện, đề tài đã nghiên cứu cơ sở pháp lý, cơ chế quản lý và sử dụng tiền ký quỹ, từ đó đề xuất các điều kiện triển khai công cụ ký quỹ môi trường đối với các dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao vào thực tiễn tại Việt Nam, bao gồm đề xuất các nội dung cần hoàn thiện, bổ sung, điều chỉnh, xây dựng mới hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho việc triển khai ký quỹ môi trường đối với các dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao vào thực tiễn công tác quản lý môi trường tại Việt Nam.
Tóm lại, để xây dựng một công cụ kinh tế hiệu quả áp dụng với các dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường cao, bước quyết định là phải “sàng lọc” nhằm phân loại các dự án và từ đó có quyết định dự án có phải đối tượng ký quỹ hay không. Việc lựa chọn công nghệ là yếu tố quyết định dự án có thuộc đối tượng ký quỹ môi trường là do công nghệ đóng vai trò quyết định dòng thải, mức độ tác động của dự án đến môi trường. Với mô hình này, thay vì rủi ro về môi trường mà cộng đồng phải gánh chịu, doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm và theo đó, doanh nghiệp phải cân nhắc khi lựa chọn công nghệ.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20909/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.