Nghiên cứu công nghệ sản xuất túi bao Nghiên cứu kết quả trên cây ứng dụng phù hợp với điều kiện hoạt động và khí hậu Việt Nam
14/05/2025
7 Lượt xem
Trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển, trái cây phải đối mặt với nhiều yếu tố bất lợi, bao gồm những biến đổi tự nhiên về cấu trúc bên ngoài và các quá trình sinh lý, sinh hóa diễn ra bên trong. Bên bờ đó, sự tấn công của côn trùng, chim côn trùng và các loại nấm, mầm bệnh cũng gây ra những phiền toái đáng kể. Thêm vào đó, các hoạt động vật lý và cơ học trong quá trình hoạt động và thu hoạch cũng làm giảm giá trị thương mại của sản phẩm, ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất, chất lượng và gây ra những tổn hại kinh tế không nhỏ cho người trồng tiền. Để giải quyết vấn đề này, các phương pháp canh tác nông nghiệp tốt (GAP) ngày càng được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới, hướng tới việc sản xuất trái cây chất lượng cao, đồng thời giảm thiểu sự phụ thuộc vào các chất hóa học tổng hợp. Trong số các biện pháp bảo vệ hiệu quả, hãy sử dụng túi bao quả trực tiếp trên cây trước khi thu thập mục tiêu đã được chứng minh là quan trọng. Đây là một phương pháp bảo vệ vật lý đơn giản nhưng hiệu quả, bằng cách bao bọc trái cây khi chúng tôi đạt được một giai đoạn phát triển nhất định. Túi bao không chỉ giúp cải thiện bề mặt màu sắc bên ngoài, làm tăng tính thẩm mỹ và giá trị thương mại mà còn góp phần nâng cao chất lượng bên trong, bảo vệ khỏi các tác nhân gây hại từ môi trường bên ngoài.
Hiện nay, tại Việt Nam, việc sử dụng túi bao quả trên cây chủ yếu dựa vào các sản phẩm nhập khẩu từ các nước như Đài Loan, Thái Lan và Trung Quốc. Loại túi này đa dạng về chất liệu, nhưng chưa được đánh giá đầy đủ về mức độ phù hợp đối với từng loại trái cây cụ thể trong điều kiện hoạt động và khí hậu Việt Nam. Việc áp dụng phương pháp này vẫn còn mang tính tự phát, chủ yếu dựa trên sự giới thiệu của các đơn vị kinh doanh. Đáng chú ý là, qua khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy rằng chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung vào công việc nghiên cứu và phát triển công nghệ sản xuất túi bao quả trực tiếp trên cây (trước khi thu hoạch) trong nước. Các nghiên cứu hiện tại chủ yếu hướng đến công việc nghiên cứu các loại bao bì phục vụ cho mục tiêu bảo quản trái cây sau khi thu hoạch.
Xuất phát từ thực tế trên, ThS. Phạm Cao Thăng, Viện cơ nông khí và công nghệ sau thu hoạch đã cùng các cộng sự thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu công nghệ sản xuất túi bao quả trên cây ứng dụng phù hợp với điều kiện canh tác và hậu Việt Nam” có thể làm chủ công nghệ sản xuất túi bao quả phù hợp với đặc tính sinh học, sinh trưởng và phát triển một số loại trái cây năng lực của Việt Nam. Đồng thời, đề tài hướng dẫn đến việc hoàn thiện hệ thống thiết bị sản xuất hiện có trong nước để sản xuất ra những sản phẩm túi bao quả đạt chất lượng tương đương với hàng nhập khẩu, nhưng với chi phí sản xuất giảm thiểu ít nhất 15%. Kết quả của đề tài này hứa hẹn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng trái cây và sức tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường.
Sau quá trình nghiên cứu, đề tài đã đạt được những kết quả quan trọng:
Đã thu thập, phân tích và đánh giá 4 loại túi bao quả phổ biến trên thị trường (giấy, vải không dệt, POPP, PE), cho thấy túi PE có ưu điểm về độ bền cơ học, độ bền tiết kiệm và tốc độ truyền sáng, nhưng cần cải thiện khả năng vận chuyển khí.
Đã lựa chọn LDPE vật liệu phù hợp và xây dựng quy trình sản xuất vật liệu nền, hạt masterbatch với các đặc tính kỹ thuật.
Đã nghiên cứu, đánh giá tác động của túi bao quả đến sinh lý, sinh hóa và bệnh dịch trên xoài, na, chuối, cho thấy công việc bao giúp giảm tỷ lệ rụng lá và nhiễm sâu bệnh, đồng thời không ảnh hưởng tiêu cực chất lượng đến quả.
Đã xây dựng quy trình sản xuất túi bao quả cho xoài (30x30 cm), na (20x25 cm) và chuối (80x120 cm) từ vật liệu LDPE kết hợp silica, nano bạc keo khuẩn, parafin và phụ gia, đảm bảo độ bền cao và độ sáng truyền phù hợp.
Đã chế tạo thiết bị phối hợp các chất chức năng và sản xuất được số lượng lớn túi bao quả cho xoài, na, chuối với giá thành thấp hơn đáng kể so với sản phẩm nhập khẩu và một số sản phẩm trong nước.
Đã phát triển mô hình ứng dụng túi bao quả tại Sơn La (xoài), Lạng Sơn (na) và Hưng Yên (chuối) với quy mô 0,5ha/mô hình, cho thấy hiệu quả tương thích túi BOPP nhập ngoại, thậm chí giảm tỷ lệ nhiễm sâu bệnh tốt hơn nhờ bổ sung nano bạc kháng khuẩn.
Đề tài kiến nghị tiếp tục nghiên cứu và đánh giá hiệu quả của túi bao quả trên các loại trái cây có giá trị kinh tế cao khác của Việt Nam.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20698/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.