Nghiên cứu gói kỹ thuật nhằm phát triển chăn nuôi dê cừu và bò thịt thích ứng với điều kiện hạn hán vùng Nam Trung bộ và Tây Nguyên
03/06/2025
5 Lượt xem
Biến đổi khí hậu và hiện tượng El Nino đã gây ra nắng nóng và hạn hán bất thường ở nhiều khu vực tại Việt Nam, đặc biệt là Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất. Lĩnh vực chăn nuôi gia súc ăn cỏ chịu tác động nặng nề nhất do nguồn thức ăn xanh suy giảm năng suất, chất lượng và vật nuôi bị stress, dẫn đến giảm số lượng đầu con, năng suất sinh sản, sinh trưởng và hiệu quả kinh tế. Trước tình hình cấp bách này, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã đặt hàng nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ nhằm duy trì và phát triển chăn nuôi tại các vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.
Đề tài "Nghiên cứu gói kỹ thuật nhằm phát triển chăn nuôi dê cừu và bò thịt thích ứng với điều kiện hạn hán vùng Nam Trung bộ và Tây Nguyên" của TS. Đỗ Thị Thanh Vân và cộng sự được thực hiện nhằm xây dựng các gói kỹ thuật tổng hợp về giống, dinh dưỡng, thức ăn và bảo quản, đặc biệt chú trọng khả năng thích ứng với điều kiện hạn hán khắc nghiệt. Đồng thời, đề tài cũng phát triển quy trình sản xuất tinh cừu đông lạnh và thụ tinh nhân tạo, một giải pháp hiệu quả để nhân nhanh các giống tốt thích nghi. Mục tiêu cuối cùng là nâng cao hiệu quả kinh tế cho các loài vật nuôi chủ lực (dê, cừu, bò thịt) tại vùng hạn hán và góp phần phát triển bền vững ngành chăn nuôi cừu ở Việt Nam thông qua việc ứng dụng công nghệ sinh sản tiên tiến.
Kết quả nghiên cứu đã làm rõ bức tranh về biến đổi khí hậu và tác động của nó đến ngành chăn nuôi tại các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, đồng thời đưa ra các giải pháp kỹ thuật đột phá. Kết quả điều tra khí hậu trong giai đoạn 2000-2016 cho thấy xu hướng tăng nhiệt độ rõ rệt tại các tỉnh Ninh Thuận (+0,0222°C/năm), Bình Thuận (+0,0367°C/năm), Đắk Lắk (+0,0640°C/năm) và Gia Lai (+0,0440°C/năm). Lượng mưa cũng có sự khác biệt giữa các vùng, với tổng lượng mưa hàng năm tại Ninh Thuận thấp hơn Bình Thuận và sự phân bố mưa theo mùa khác nhau giữa Đắk Lắk và Gia Lai. Tình trạng hạn hán do biến đổi khí hậu đã gây ra những tác động tiêu cực đáng kể đến chăn nuôi dê, cừu và bò thịt. Tác động gián tiếp thể hiện qua việc giảm năng suất cây trồng làm nguồn thức ăn bị hạn chế, đặc biệt là cây lấy hạt bị ảnh hưởng nặng hơn cây có củ. Trực tiếp hơn, hạn hán làm giảm số lượng đầu gia súc, ảnh hưởng xấu đến năng suất sinh sản và sinh trưởng của vật nuôi.
Đối phó với những thách thức này, đề tài đã xây dựng và thử nghiệm thành công các gói kỹ thuật phát triển chăn nuôi thích ứng. Đối với dê và cừu, nghiên cứu đã xác định được các tổ hợp lai thịt vượt trội về khối lượng cơ thể so với giống địa phương. Cụ thể, các tổ hợp lai dê F1 (50% Boer, 50% Bách Thảo) và FB (25% Boer, 75% Bách Thảo) cho khối lượng cơ thể tại các thời điểm theo dõi cao hơn dê Bách Thảo 10,6% - 33,9%. Tương tự, các tổ hợp lai cừu F1 (50% Dorper, 50% Phan Rang) và FB (25% Dorper, 75% Phan Rang) vượt trội cừu Phan Rang 13,5% - 42,0%. Về nguồn thức ăn thô, các giống cỏ hòa thảo như Voi VA06, Voi Kingrass, Ruzi, Mulato và cây họ đậu Flemingia cho năng suất chất xanh cao. Cây xương rồng cũng thể hiện tiềm năng khi năng suất chất xanh ở năm thứ hai thu hoạch đạt 168,6 tấn/ha, cao hơn đáng kể so với năm đầu. Các phương pháp bảo quản thức ăn thô bằng phơi khô hoặc ủ chua đều phù hợp. Việc áp dụng quy trình chăn nuôi dê, cừu này tại vùng khô hạn Nam Trung bộ đã cho thấy hiệu quả kinh tế cao hơn rõ rệt so với phương pháp truyền thống, với mức tăng từ 10,6% đến 42,0%. Đối với chăn nuôi bò thịt tại Tây Nguyên, các tổ hợp lai F1 (50% Drought Master, 50% Lai Sind), F1 (50% Drought Master, 50% Địa phương), F1 (50% Brahman, 50% Lai Sind) cho thấy khả năng tăng khối lượng cơ thể tốt, đặc biệt tổ hợp lai bò F1 (50% Drought Master, 50% Lai Sind) có khối lượng cao hơn bò Lai Sind 50% - 117,25%. Các giống cỏ như Voi VA06, Ghi-nê TD 58, Paspalum cũng cho năng suất xanh cao, đảm bảo nguồn thức ăn cho bò. Quy trình kỹ thuật chăn nuôi bò thịt cho vùng khô hạn Tây Nguyên cũng mang lại năng suất cao hơn so với phương thức truyền thống từ 50% đến 117,25%.
Ngoài ra, đề tài còn thành công trong việc xây dựng quy trình sản xuất tinh cừu đông lạnh và thụ tinh nhân tạo. Môi trường VNE và phương pháp đông lạnh nhanh (P2) được xác định là tối ưu cho chất lượng tinh cừu sau giải đông, đảm bảo hoạt lực tinh trùng đạt yêu cầu (≥ 40%). Đã sản xuất được 3.000 liều tinh cừu đông lạnh chất lượng tốt từ giống Phan Rang và Dorper. Tỷ lệ đậu thai khi sử dụng tinh đông lạnh Phan Rang là 50,00% và Dorper là 52,17%, với tổng số 103 cừu con được sinh ra từ thụ tinh nhân tạo. Từ những kết quả khả quan này, đề tài đề nghị áp dụng rộng rãi các gói kỹ thuật chăn nuôi dê, cừu và bò thịt là kết quả nghiên cứu tại các vùng hạn hán Nam Trung bộ và Tây Nguyên, đồng thời cho phép sản xuất thử nghiệm tinh cừu đông lạnh dạng cọng rạ để phục vụ công tác thụ tinh nhân tạo cho đàn cừu trên cả nước.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20849/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.