Giải pháp công nghệ xử lý quản lý nước thải sinh hoạt phân tán (quy mô hộ gia đình và cụm dân cư) cho khu vực nông thôn tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ
26/05/2025
9 Lượt xem
Nước thải sinh hoạt từ khu dân cư, đặc biệt từ công trình vệ sinh hộ gia đình, cần được thu gom, vận chuyển và xử lý đúng cách để có thể quản lý và tái sử dụng một cách an toàn. Hiện nay, nước thải sinh hoạt được thu gom và xử lý ở nước ta còn ở tỷ lệ rất thấp. Theo Trung tâm Cấp nước và vệ sinh Nông thôn (CERWASS) cho biết ở khu vực nông thôn có khoảng 50% hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh so mục tiêu đặt ra là 60%. Bên cạnh đó, chỉ có 25% nhà ở được trang bị nhà tiêu tiêu chuẩn (Chương trình Nước và vệ sinh, 2016).
Cơ sở hạ tầng tại vùng sâu vùng xa hầu hết được tài trợ bởi Bộ Nông nghiệp và chịu trách nhiệm bởi Ủy ban Nhân dân tỉnh hoặc xã. Các trở ngại chính để nâng cao mức độ bao phủ trong lĩnh vực vệ sinh môi trường nông thôn là còn thiếu các giải pháp công nghệ và công trình thu gom và xử lý nước thải hiệu quả và mô hình quản lý và tài chính phù hợp để đáp ứng đòi hỏi to lớn trong lĩnh vực này ở khu vực nông thôn. Việc đầu tư xây dựng và vận hành các hệ thống thoát nước và xử lí nước thải tập trung đã và sẽ còn là quá xa xỉ đối với nhiều nơi trong số trên 800 đô thị lớn, nhỏ trên cả nước, chưa nói đến các vùng ven đô, nông thôn. Quản lí nước thải hộ gia đình và theo quy mô phân tán, do đó, chính là một giải pháp quan trọng, khắc phục những nhược điểm và khoảng trống của quản lí nước thải tập trung, quy mô lớn, thích hợp cho nhiều đối tượng khác nhau.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngành công nghiệp môi trường vẫn còn đang ở giai đoạn ‘’sơ khai’’, và còn rất thiếu các giải pháp công nghệ, các thiết bị và công trình đáp ứng đòi hỏi to lớn của thực tế trong lĩnh vực này. Việc nghiên cứu làm sạch nước thải tại chỗ cho các hộ gia đình hay các cụm dân cư bằng các công nghệ phù hợp, vừa đơn giản, có chi phí xây dựng và vận hành thấp, vừa đảm bảo vệ sinh môi trường, là một hướng giải quyết hợp lý và khả thi.
Các mô hình công nghệ xử lý và quản lý nước thải tại chỗ cho các hộ gia đình hay các cụm dân cư cần được đánh giá toàn diện nhằm hoàn hiện và nhân rộng công nghệ phù hợp, đơn giản, có chi phí xây dựng và vận hành thấp, đảm bảo yêu cầu vệ sinh môi trường. Đây là nhu cầu thực tiễn cấp bách cho công tác bảo vệ môi trường nói chung, cũng như hướng tới sự phát triển kinh tế xã hội bền vững của các mô hình Nông thôn mới.
Xuất phát từ thực tiễn trên, Chủ nhiệm đề tài PGS.TS Trần Thị Việt Nga cùng nhóm nghiên cứu tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội thực hiện nghiên cứu “Giải pháp công nghệ xử lý quản lý nước thải sinh hoạt phân tán (quy mô hộ gia đình và cụm dân cư) cho khu vực nông thôn tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ” với mục tiêu: Đánh giá thực trạng xử lý nước thải sinh hoạt nông thôn ở các tỉnh Bắc Trung Bộ; Đề xuất mô hình tổ chức quản lý và giải pháp công nghệ để xử lý nước thải sinh hoạt (quy mô hộ gia đình và cụm dân cư) cho khu vực nông thôn tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ; ) Đề xuất cơ chế chính sách và tài chính để áp dụng và nhân rộng nhằm nâng cao hiệu quả quả lý nước thải sinh hoạt nông thôn các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
1. Bắc Trung Bộ là vùng lãnh thổ kéo dài trên nhiều vĩ độ, Từ dãy Tam Điệp đến dãy Bạch Mã, diện tích 51513 km2, bao gồm 6 tỉnh (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế). Theo báo cáo Rà soát, đánh giá Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2019 khu vực Bắc Trung Bộ đã có 838/1585 xã (52,87%) đã đạt chuẩn nông thông mới (NTM); bình quân đạt 15,8 tiêu chí/xã; còn 127 xã dưới 10 tiêu chí (chiếm 9,95% số xã dưới 10 tiêu chí cả nước và 8% số xã trong vùng), trong đó có 61 xã ở Nghệ An (48%), có 09 đơn vị cấp huyện (thuộc 03 tỉnh) đã được công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Hiện trạng quản lý nước thải khu vực nông thôn thuộc các tỉnh Bắc Trung Bộ còn rất nhiều hạn chế. Khu cực dân cư nông thôn có đặc điểm chung là các cơ sở sản xuất, chăn nuôi quy mô hộ gia đình nằm xen kẽ với dân cư nông thôn, do đó nước thải được thu gom trong mạng lưới thoát nước khu dân cư bên ngoài lượng nước thải sinh hoạt còn có lẫn nước thải chăn nuôi nên chứa lượng lớn các chất ô nhiễm hữu cơ, vi sinh vật gây bệnh và có chế độ độ lưu lượng khá phức tạp. Hệ thống thu gom phát triển chưa hoàn chỉnh, chủ yếu ở dạng mương hở.
2. Hướng tới mục tiêu thúc đẩy áp dụng các công nghệ xử lý nước thải (XLNT) để quản lý hiệu quả nước thải sinh hoạt ở khu vực nông thôn, đối tượng công nghệ của dự án này là hệ thống XLNT thích hợp mang lại lợi ích đa mục tiêu. Do đó, trong khuôn khổ Nhiệm vụ, bộ các tiêu chí lựa chọn được phát triển trong phạm vi của đề tài, bao gồm: 1) nhóm tiêu chí Kỹ thuậtCông nghệ; 2) nhóm tiêu chí Kinh tế; 3) nhóm tiêu chí về Sự phù hợp với điều kiện địa phương; và 4) nhóm tiêu chí Khác bao gồm cả sự tham gia và chấp nhận của công đồng.
Giải pháp đồng thiết kế, đồng sản xuất sẽ được áp dụng trong đó kết nối cả các bên liên quan vao quy trình xây dựng và phát triển công cụ. Bộ tiêu chí sẽ giúp lựa chọn công nghệ và quy mô của hệ thống xử lý nước thải phù hợp để xử lý nước thải hiệu quả.
3. Dựa trên các điều kiện trên, có thể đề xuất một số tiêu chí để lựa chọn công nghệ xử lý cho khu vực nông thôn khu vực Bắc Trung Bộ như sau: i) Đảm bảo hiệu quả xử lý các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng; ii) Sử dụng các nguồn vật liệu sẵn có của địa phương; Vận hành, bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế dễ dàng; iii) Hạn chế sử dụng hóa chất, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường.
Trong phạm vi nhiệm vụ, đã nghiên cứu phát triển vật liệu từ phế thải Phế thải bê tông khí chưng áp (AAC) làm vật liệu lọc và vật liệu hấp phụ; kết quả nghiên cứu phòng thí nghiệm cho thấy đây là giải pháp vật liệu lọc chi phí thấp có hiệu quả cao trong loại bỏ kim loại nặng và xử lý chất hữu cơ, photpho trong nước thải.
4. Các mô hình công nghệ và quản lý vận hành hệ thống xử lý nước thải khu vực nông thôn trong nhiệm vụ cần được đánh giá về hiệu quả kỹ thuật – kinh tế - xã hội và môi trường để triển khai nhân rộng. Các tiêu chí đánh giá bao gồm hiệu quả xử lý, sự phù hợp với điều kiện địa phương, khả năng thu hồi và tái sử dụng tài nguyên, khả năng giảm thiểu chi phí vận hành và tạo ra doanh thu, đồng thời thu hút cộng đồng vì tính bền vững của hệ thống.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20860/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.