Mở rộng ứng dụng trí tuệ nhân tạo đồng bộ, hiệu quả hơn trong lĩnh vực công
31/05/2025
3 Lượt xem
Một số cơ quan nhà nước đã bước đầu ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) cho thấy hiệu quả trong nâng cao năng suất, minh bạch và chất lượng dịch vụ công. Tuy nhiên, quy mô còn nhỏ, thiếu dữ liệu, hạ tầng và nhân lực khiến AI chưa phát huy hết tiềm năng trong khu vực công.
Nhiều mô hình thử nghiệm khả quan
Báo cáo Đánh giá nhanh ứng dụng AI trong các cơ quan nhà nước do Viện Nghiên cứu chính sách và phát triển truyền thông (IPS) công bố cuối tháng 4/2025 cho thấy, nhiều đơn vị đã bước đầu ứng dụng công nghệ này vào hoạt động chuyên môn. Cụ thể, tại Bộ Thông tin và Truyền thông (trước đây), trợ lý ảo dành cho cán bộ, công chức và người dân đã hoàn thành giai đoạn phát triển đầu tiên. Ứng dụng hỗ trợ rà soát các mâu thuẫn về thẩm quyền, kiểm tra hiệu lực văn bản và tìm kiếm nội dung quy phạm pháp luật. Tuy vậy, giải pháp này vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, chưa được đưa vào vận hành thực tế.
Ứng dụng công nghệ, AI đang dần được triển khai ở lĩnh vực công. Ảnh minh họa
Hay Tòa án nhân dân tối cao từ năm 2022 đã triển khai trợ lý ảo hỗ trợ thẩm phán, dựa trên mô hình AI truyền thống. Đến cuối năm 2024, hơn 16.000 tài khoản đăng ký sử dụng, với 6 triệu lượt hỏi đáp, cho thấy nhu cầu và tính khả thi của ứng dụng. Trợ lý ảo này có thể truy xuất hơn 160.000 văn bản pháp luật, 63 án lệ và hơn 1 triệu bản án, giúp giảm đến 30% khối lượng công việc so với thao tác thủ công.
Tây Ninh là địa phương tiên phong triển khai AI trong nhiều lĩnh vực hành chính công. Hệ thống phản ánh kiến nghị có thể tự động phân loại, chuyển xử lý. Trợ lý ảo hỗ trợ cán bộ soạn thảo văn bản, sửa lỗi ngữ pháp, tích hợp với hệ thống văn bản điện tử của tỉnh cũng đang được thử nghiệm. Đặc biệt, các giải pháp AI tại đây được phát triển từ mã nguồn mở của Google, tối ưu hóa cho hạ tầng sẵn có.
Ngoài ra, Tây Ninh còn tích hợp AI vào hệ thống giám sát giao thông. Các camera có khả năng nhận diện biển số, khuôn mặt, theo dõi hành vi bất thường và hỗ trợ khi có sự cố, góp phần bảo đảm an ninh trật tự.
Theo ông Nguyễn Quang Đồng - Viện trưởng IPS, những trường hợp thành công đều xuất phát từ nhu cầu thực tế và nguồn lực sẵn có, tránh được “hội chứng chạy theo công nghệ”. "Ứng dụng AI trong khu vực công không chỉ là xu hướng toàn cầu mà còn mang lại giá trị thiết thực trong quản trị, phục vụ người dân và doanh nghiệp", ông Đồng nói.
Khởi đầu nhiều triển vọng, nhưng cần chiến lược dài hạn
Dù có những mô hình thành công, báo cáo của IPS chỉ rõ ứng dụng AI trong cơ quan nhà nước ở Việt Nam hiện mới ở giai đoạn ban đầu, manh mún và thiếu tính chiến lược. Đa số ứng dụng chỉ dừng lại ở vai trò trợ lý ảo, chatbot trả lời tự động, chưa mở rộng sang các lĩnh vực như ra quyết định chính sách, cung cấp dịch vụ công trong giáo dục, y tế, dự báo thiên tai, hay an ninh trật tự.
Thực tế, khảo sát của IPS cho thấy có tới 87% dự án tích hợp AI không được triển khai thực tế; 70% tổ chức, doanh nghiệp đánh giá hiệu quả tích hợp AI còn thấp. Nguyên nhân được xác định là do thiếu cơ sở dữ liệu đồng bộ, hạ tầng tính toán còn yếu, thiếu nhân lực chất lượng cao và chính sách pháp lý chưa theo kịp tốc độ công nghệ.
Ông Trần Anh Tú - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) nhận định, hiện hệ thống dữ liệu vẫn phân tán, chưa có tính liên thông, các ứng dụng chưa đồng bộ, gây khó khăn cho việc triển khai AI. “Chính sách cũng đang chạy sau công nghệ, trong khi đây là yếu tố then chốt để thúc đẩy ứng dụng AI vào các hoạt động công”, ông Tú lưu ý.
Đồng quan điểm, PGS.TS Nguyễn Xuân Hoài - Viện trưởng Viện Trí tuệ nhân tạo (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực làm việc trong lĩnh vực này, cả chuyên gia, cố vấn lẫn hạ tầng kỹ thuật để phát triển dữ liệu lớn, xây dựng mô hình nền tảng và công cụ phục vụ ứng dụng.
Từ góc độ chính sách, ông Nguyễn Quang Đồng khuyến nghị, Việt Nam nên phát triển các ứng dụng AI hẹp, chuyên sâu trong từng lĩnh vực thay vì đầu tư dàn trải, vì dữ liệu của khu vực công đa phần có cấu trúc và dễ kiểm soát thuật toán. Đồng thời, cần dành ngân sách cho nghiên cứu phát triển mô hình AI riêng, thay vì phụ thuộc hoàn toàn vào công nghệ nước ngoài.
Đáng chú ý, nhiều chuyên gia cho rằng có thể tận dụng các mô hình hợp tác công - tư để đẩy mạnh ứng dụng AI trong khu vực công. Các cơ quan nhà nước có thể thuê hạ tầng từ doanh nghiệp như Viettel, FPT - những đơn vị đã hỗ trợ xây dựng trung tâm dữ liệu tại nhiều địa phương. Giải pháp này tiết kiệm chi phí đầu tư, bảo trì, lại được hỗ trợ bởi Nghị định 82/2024/NĐ-CP ngày 10/7/2024 của Chính phủ.
Bên cạnh đó, việc mời thầu các doanh nghiệp tư nhân có giải pháp AI phù hợp cũng nên được khuyến khích, thay vì chỉ giao cho các doanh nghiệp nhà nước như hiện nay. Như kinh nghiệm quốc tế cho thấy, việc xây dựng danh sách các doanh nghiệp công nghệ đáng tin cậy là điều cần thiết để tăng niềm tin và hiệu quả hợp tác.
Theo nghiên cứu của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), chỉ khi AI được ứng dụng vào trên 25% tác vụ, tổ chức mới thu được giá trị tăng trưởng rõ rệt. Điều đó cho thấy, nếu Việt Nam muốn AI thực sự mang lại hiệu quả, cần có chiến lược tổng thể, tích hợp AI vào hoạt động cốt lõi của cơ quan nhà nước, chứ không chỉ dừng lại ở các dự án thí điểm.
Với tiềm năng lớn, nhưng cũng đầy thách thức, việc ứng dụng AI trong khu vực công ở Việt Nam cần được đặt trong một lộ trình cụ thể, có định hướng rõ ràng về dữ liệu, hạ tầng, nhân lực, chính sách và mô hình hợp tác. Nếu làm tốt, AI hoàn toàn có thể trở thành công cụ chuyển đổi mạnh mẽ trong công tác quản trị, phục vụ người dân và doanh nghiệp hiệu quả hơn.