Nghiên cứu thành phần và đề xuất các loài song mây có giá trị kinh tế cao cho bảo tồn và gây trồng theo vùng sinh thái
13/05/2025
4 Lượt xem
Song mây (Rattan) là tên gọi chung của các loài cây có gai, hầu hết là thân leo, quả có vảy trong họ Cau (Palmae hay Arecaceae) thuộc lớp thực vật 1 lá mầm (Monocotyledone). Trên thế giới có khoảng 600 loài khác nhau thuộc 13 chi. Hầu hết các loài song mây phân bố chủ yếu ở các nước nhiệt đới (Dransfield & Manokaran, 1994).
Việt Nam là một nước nhiệt đới có tính đa dạng sinh học cao, được đánh giá là một trong những trung tâm đa dạng toàn cầu (WWF, Global 200 -2000). Song mây cũng là một trong những nhóm thực vật có tính đa dạng cao về thành phần loài. Khu hệ song mây ở Việt nam còn được biết đến với tính chất đặc hữu cao với khoảng một nửa số loài song mây ở nước ta là đặc hữu hẹp của một vùng hoặc của Việt Nam. Không chỉ biết đến tính đa dạng về thành phần loài, song mây còn rất phong phú về tài nguyên. Hầu hết các loài song mây đều có công dụng, trong đó khoảng gần 30 loài có giá trị kinh tế, được khai thác sử dụng cho thương mại. Đây là một trong những sản phẩm ngoài gỗ có giá trị quan trọng đối với phát triển kinh tế nông thôn và chế biến lâm sản xuất khẩu. Tài nguyên song mây đã cung cấp một nguồn thu nhập tương đối ổn định cho một bộ phận không nhỏ người nghèo trong các cộng đồng gần rừng. Song mây là nguyên liệu không thể thay thế của công nghệ mây tre đan, sản xuất đồ gia dụng, trang trí nội thất và là mặt hàng lâm sản xuất khẩu quan trọng hiện nay.
Tuy nhiên, nguồn tài nguyên song mây của nước ta đang bị suy thoái nặng nề do một thời gian dài khai thác, sử dụng không hợp lý. Chúng ngày càng cạn kiệt trong tự nhiên, đã có một số loài bị tuyệt chủng ở Việt Nam, và nhiều loài đứng trước nguy cơ bị đe doạ tuyệt chủng. Cho tới nay, chúng ta vẫn chưa có giải pháp phù hợp để quản lý, bảo tồn, phục hồi và phát triển song mây hiệu quả. Chính vì vậy, Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Quốc Dựng cùng nhóm nghiên cứu tại Viện điều tra, Quy hoạch rừng thực hiện “Nghiên cứu thành phần và đề xuất các loài song mây có giá trị kinh tế cao cho bảo tồn và gây trồng theo vùng sinh thái” với mục tiêu: Nghiên cứu, xác định được thành phần và phân bố của loài song mây theo các vùng sinh thái; Xác định được danh lục các loài cần phải bảo tồn và mức độ đe dọa, và đề xuất các khu vực đưa vào bảo tồn; Xác định được danh lục các loài có giá trị kinh tế cao và đề xuất mô hình ở các khu vực gây trồng phát triển trên một số vùng sinh thái.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
- Thành phần loài song mây rất đa dạng, đã thống kê được 56 loài thuộc 6 chi. Trong đó, có tới 26 loài mới cho khoa học, 28 loài đặc hữu của Việt Nam, 02 loài đã được ghi nhận trong Sách đỏ Việt Nam phần thực vật (2007).
- Song mây phân bố khắp toàn quốc, tuy nhiên tập trung nhất ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên 36 loài, sau đó là Trung Trung Bộ 28 loài, Nam Bộ 16 loài, Bắc Bộ và các tỉnh Bắc Bắc Bộ mỗi vùng chỉ có 12 loài.
- Song mây có phân bố sinh thái chủ yếu từ đại cao dưới 1.600 m so với mực nước biển, tập trung nhiều ở các vùng thấp có điều kiện khí hậu nhiệt đới, nóng, ẩm. Chúng có mặt ở hầu hết các kiểu rừng.
- Giá trị bảo tồn theo tiêu chí của IUCN (2019) có tới 19 loài song mây đang nguy cấp ở Việt Nam, trong đó có 01 loài bị tuyệt chủng (EX), 02 loài tuyệt chủng ngoài tự nhiên (EW), 01 loài rất nguy cấp (CR), 12 loài ở mức nguy cấp (EN) và 03 loài sẽ nguy cấp (VU).
- Kết quả đánh giá các loài song mây có giá trị kinh tế đã xác định được 28 loài song mây có được các doanh nghiệp và người dân sử dụng ở mức độ khác nhau. Các loài này được đề xuất gây trồng và phát triển theo vùng sinh thái.
- Đề xuất các mô hình bảo tồn tại chỗ (in situ), bảo tồn chuyển chỗ (ex situ), khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên (có trồng bổ sung), các mô hình trồng thử nghiệm, trồng thâm canh và trồng quảng canh.
- Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, đề tài đã đề xuất một số nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Nhà nước, cấp Bộ NN&PTNT và cấp tỉnh.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20791/2021) tại CụcThông tin, Thống kê.