Các nhà khoa học Việt đã xây dựng thành công quy trình nuôi tôm hùm trên bờ, tôm sống khỏe, lớn nhanh, đầu tư giảm đến 20% nhưng tôm chất lượng nên lợi nhuận cao.
TS Mai Duy Minh, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 3 cho biết, nuôi tôm hùm trên cạn bằng bể không phải là công nghệ mới trên thế giới, nhưng chưa được nghiên cứu tại Việt Nam. Từ năm 2016 Viện bắt đầu nghiên cứu công nghệ này, nuôi thử nghiệm và hoàn thiện, chuyển giao cho Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc ứng dụng năm 2018.
Công nghệ này được ứng dụng vào phát triển dự án nuôi tôm hùm trên bờ quy mô hàng hóa tại vùng bãi ngang tỉnh Phú Yên, được Bộ Khoa học và Công nghệ giao cho Công ty TNHH Thủy sản Đắc Lộc thực hiện từ tháng 6/2018 đến tháng 12/2020 để đánh giá hiệu quả. Qua thời gian triển khai cho thấy, công nghệ mới mang lại hiệu quả cao hơn so với cách nuôi truyền thống.
Theo TS Minh, để nuôi tôm hùm trên bể nuôi, phải đảm bảo nước luôn đạt yêu cầu tôm sinh trưởng và phát triển. Điều này là không dễ, ngay cả với tôm nuôi trong lồng bè bởi chất thải từ tôm và chất hữu cơ trong thức ăn làm môi trường nước bị ô nhiễm liên tục làm tôm chết. Công nghệ lọc tuần hoàn tái sử dụng nước (RAS) được các nhà khoa học nghiên cứu, áp dụng.
Hệ thống bể nuôi được thiết kế gồm bể lắng chất thải, bể lọc sinh học, bể chuẩn hóa chất lượng nước, hệ thống thiết bị như trống lọc, skimmer, UV, máy ổn định nhiệt độ nước...
Nước nuôi tôm sẽ được lọc liên tục bằng máy bơm, từ bể nuôi sang bể lắng, bơm sang bể lọc rồi lại trở về bể nuôi trước khi được làm sạch và khử trùng bằng tia UV. "Chìa khóa công nghệ ở đây chính là bể lọc sinh học", TS Minh nói.
Hệ thống nuôi tôm hùm trong bể trên bờ tái sử dụng nước (RAS). Ảnh: NVCC
Bên trong bể lọc sinh học được chứa đầy các vật liệu lọc, đó là các giá thể cho vi sinh phát triển. Đồng thời, bể lọc có bố trí các ống thổi khí đảm bảo nước được đối lưu. Hai loài vi sinh vật là Nitrosomonas và Nitrobacter sẽ được bổ sung vào bể lọc để chúng bám vào các vật liệu lọc để xử lý nước. Trong nước nuôi tôm có nhiều protein trôi nổi, một loài vi sinh vật sẽ phân hủy protein thành NH3, sau đó, loài vi sinh vật thứ hai sẽ phân hủy NH3 thành NO2 và NO3. Mỗi bể lọc được thiết kế theo dạng ngăn liền kề, từ ba ngăn trở lên.
Trong bể được trang bị hệ thống cảnh báo môi trường để giám sát nhiệt độ, PH, độ mặn, oxy hòa tan... Theo tính toán, với bể nuôi khoảng 2.100kg tôm, cần lưu lượng nước 1.470 m3/ngày.
Bể nuôi cũng được thiết kế hệ thống máy ổn định nhiệt với dàn truyền nhiệt để đảm bảo nhiệt độ nước luôn trong khoảng từ 27-28 độ C kể cả khi nhiệt độ ngoài trời lên đến 36-38 độ C. Điều này giúp tôm không bị ảnh hưởng bởi thời tiết, hạn chế tình trạng tôm chết. Công nghệ này có giá thảnh rẻ hơn công nghệ nhập khẩu khoảng 5 lần.
Do hệ thống lọc tuần hoàn làm việc liên tục nên bể nuôi tôm tuần hoàn không cần thay nước. Nhưng để kích thích tôm lột xác, nhóm nghiên cứu thử nghiệm và thấy, cứ 15 ngày/lần thay 100% nước trong bể nuôi đối với tôm nhỏ dưới 100 g/con và thay 50% đối với tôm lớn trên 100 g/con giúp tăng hiệu quả sản xuất. Tôm cũng được tắm oxy già 40 ppm trong 10 phút/tháng để phòng các bệnh do vi khuẩn, kí sinh trùng. Hàng tuần sẽ bổ sung vi sinh vật vào các ngăn lọc của bể lọc sinh học.
Nhóm nghiên cứu cũng xây dựng quy trình sản xuất thức ăn dạng viên cho tôm hùm. Các viên này được làm từ bột cá và bột mì, chất tạo mùi thơm cùng một số chất kết dính để thức ăn không tan quá nhanh trong nước, giúp tôm sinh trưởng, phát triển tốt. Việc làm chủ quy trình sản xuất thức ăn khô cho tôm hùm giúp cho việc truy xuất nguồn gốc dễ dàng, đáp ứng được các yêu cầu xuất khẩu. Trong quá trình nuôi, thức ăn tươi sẽ được xen lẫn thức ăn khô để đảm bảo các điều kiện phát triển tốt nhất của tôm.
Nhóm áp dụng nuôi thử nghiệm trên tôm hùm bông và tôm hùm xanh, với quy mô 1.500 m2 diện tích nuôi mỗi loài tại Khu sản xuất giống thủy sản tại thôn 4, xã Xuân Hải, TX. Sông Cầu, tỉnh Phú Yên thuộc Công ty TNHH Thủy Sản Đắc Lộc. Việc lựa chọn vùng biển Bãi Ngang (Phú Yên) để thử nghiệm, theo nhóm nghiên cứu, tại đây có các điều kiện môi trường phù hợp cho tôm hùm sinh trưởng và phát triển.
Nói về hiệu quả của mô hình công nghệ, KS Trần Thị Lưu, Chủ nhiệm Dự án cho biết, phương pháp nuôi tôm trong bể trên bờ tốc độ tăng trưởng tốt. Sau thời gian nuôi 13 tháng, tôm hùm xanh đạt cỡ trên 300 g/con, tỉ lệ sống 78%. Tôm hùm bông sau thời gian nuôi 17 tháng, đạt cỡ 700 g/con tỉ lệ sống đạt 76,4%, năng suất 3,5 - 4 kg/m2 tương đương với nuôi lồng bè và giảm giá thành từ 15- 20 % so với nuôi truyền thống.Tôm nuôi trong bể có màu sắc sáng bóng, vỏ mỏng, thịt thơm ngon. Chất lượng tôm tương tự như tôm nuôi lồng bè. Nuôi tôm hùm trong hệ thống RAS gần như khắc phục những khó khăn mà nghề nuôi tôm hùm lồng hiện nay đang gặp phải.
Mô hình có thể được áp dụng tại các tỉnh có nguồn nước phù hợp để nuôi tôm hùm đặc biệt các tỉnh Quãng Ngãi đến Bình Thuận. Quy mô nuôi phụ thuộc vào điều kiện tài chính, trình độ chăm sóc quản lý. Hệ thống nuôi 1.000 kg tôm cần 300 m2 diện tích bể nuôi, chi phí đầu tư nhà xưởng và các thiết bị, công nghệ cho hệ thống nuôi lớn hơn so với nuôi lồng bè nhưng không gặp phải các rủi ro như cách nuôi truyền thống.
Dự án này thuộc chương trình đổi mới công nghệ của quốc gia do Bộ Khoa học Công nghệ chủ trì với mục đích xây dựng ngành thủy sản theo hướng hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng, có sức khả năng cạnh tranh cao trên thị trường, phát triển bền vững cả về kinh tế - xã hội, môi trường.