Tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ trong nước
28/11/2023
30 Lượt xem
Nghị định 13/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ đã mở ra một cơ hội mới, nhưng thực tế thực hiện đưa ra những thách thức đáng kể, theo đánh giá của các chuyên gia và doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
Ảnh minh hoạ
Trong khi những ưu đãi thuế và hỗ trợ đất đai được coi là động lực cho hoạt động đầu tư, thực tế là nhiều doanh nghiệp khoa học công nghệ vẫn đối mặt với khó khăn trong việc triển khai dự án.
Theo Khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam với 170 doanh nghiệp hội viên cho thấy, có 11 doanh nghiệp đã cung cấp số liệu được ưu đãi (gồm Busadco, Sao Thái Dương, Minh Long 1, Thái Bình Seed, Tiến Nông, gốm sứ Quang Vinh…) thì tổng số tiền vào khoảng 180 tỷ đồng. Còn lại đa phần là các doanh nghiệp vẫn chưa đủ điều kiện được ưu đãi và chưa thực hiện thủ tục.
Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Trưởng Làng Sáng chế và Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, ông Hoàng Đức Thảo cho biết, cần có cơ chế chính sách ưu tiên phát triển, bảo hộ thị trường hàng hóa sản xuất trong nước, đặc biệt là bảo hộ công nghệ để sản phẩm khoa học công nghệ Việt Nam sẽ là động lực thúc đẩy phát triển đổi mới sáng tạo, hướng đến làm chủ công nghệ với kỳ vọng làm chủ thị trường trong nước và quốc tế.
Không chỉ có vấn đề về chính sách, mà còn trong việc kết nối và chuyển giao công nghệ. Ông Thảo nhận định, kết quả thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ chưa tương xứng với đầu tư và nghiên cứu. Việc kết nối, chia sẻ hợp tác, chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến không đạt hiệu quả như mục tiêu và nhu cầu phát triển. Không ít doanh nghiệp chưa đặt trọng tâm đổi mới sáng tạo khoa học công nghệ, để làm nền tảng cốt lõi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững.
Mặc dù Thông tư số 03/2021/TT-BTC hướng dẫn về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với doanh nghiệp khoa học và công nghệ quy định tại Nghị định số 13/2019/NĐ-CP, doanh nghiệp khoa học công nghệ được miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Tuy nhiên, thủ tục và hồ sơ để thụ hưởng chính sách ưu đãi này theo hướng dẫn tại Thông tư 03 vẫn còn rất phức tạp, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận chính sách.
Doanh nghiệp khoa học công nghệ cần được vay vốn ưu đãi, mặc dù có tài sản đảm bảo nhưng không có cơ hội tiếp cận, không biết có tổ chức nào tập huấn, đào tạo và hướng dẫn phương pháp, bước đi cách làm hồ sơ thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến ưu đãi doanh nghiệp khoa học công nghệ.
Trước tình hình hiện tại, Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã đề xuất việc ban hành một nghị định hướng dẫn Luật Đấu thầu, nhằm thúc đẩy các hoạt động đổi mới sáng tạo thông qua ưu đãi cụ thể. Đồng thời, nhấn mạnh việc cần cải thiện năng lực của Tổ chức Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ để hỗ trợ và kiểm tra hiệu quả, giám sát, cũng như thúc đẩy các hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Các tổ chức thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ được khuyến khích tăng cường hợp tác với các sở Khoa học và Công nghệ địa phương, thực hiện các hoạt động tập huấn, hướng dẫn, và triển khai Nghị định 13 về doanh nghiệp khoa học công nghệ để đảm bảo rằng mọi doanh nghiệp trong lĩnh vực này đều được hưởng lợi từ các quy định của nghị định đó.
Bên cạnh đó, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đề xuất Chính phủ xem xét việc thiết lập cơ chế chính sách đặc thù để hỗ trợ hoạt động đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ, coi đây là một hoạt động đầu tư rủi ro, mà cần được hỗ trợ bằng chính sách của Nhà nước.
Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra, pháp chế, sở hữu trí tuệ, và thẩm định sở hữu trí tuệ để thống nhất trình tự thủ tục chống xâm phạm và bảo vệ chủ sở hữu, tác giả độc quyền sở hữu trí tuệ, và đặc biệt quan trọng là việc xử lý nhanh chóng khi có đơn yêu cầu, cũng như cần có tổ chức đầu mối một cửa tiếp nhận đơn thư.
Đồng thời, việc rà soát lại toàn bộ cơ chế chính sách nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ hiện tại cũng được đề cập, và đề xuất bổ sung điều chỉnh theo hướng xã hội hóa và tạo thị trường cạnh tranh không phân biệt thành phần, đối tượng.
Trong bối cảnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ là một hướng quan trọng, đại diện của Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam cũng nhấn mạnh về việc xây dựng đề án thí điểm chính sách tạo động lực thương mại hóa. Điều này nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển giao kết quả nghiên cứu và tài sản trí tuệ từ ngân sách Nhà nước vào sản xuất, kinh doanh, đồng thời khuyến khích hợp tác công – tư và đầu tư tư nhân trong các dự án thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Ngoài những điểm trên, việc hỗ trợ không hoàn lại kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho doanh nghiệp khoa học và công nghệ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ từ các viện, trường cũng được đề cập. Cụ thể, doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có thể nhận góp vốn bằng quyền tài sản của viện nghiên cứu, trường đại học, và các tổ chức, cá nhân khác.
Ông Trần Văn Tùng, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, cũng đề cập đến việc xây dựng một kho dữ liệu về khoa học công nghệ, sáng chế. Ông nhấn mạnh việc liên kết tất cả các kho dữ liệu công nghệ, sáng chế vào một cơ sở dữ liệu lớn sẽ giúp mọi người dễ dàng truy cập và tìm hiểu công nghệ phù hợp. Đối với ông, các tỉnh cần đóng vai trò chủ đạo, phối hợp với các sở, ban ngành để xây dựng cơ sở dữ liệu này, nhằm tạo ra hệ thống quản lý hiệu quả.
Nhìn chung, các đề xuất này đang nhắm đến việc tối ưu hóa chính sách và thủ tục hành chính, tăng cường sự kết nối và đào tạo, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp khoa học và công nghệ tại Việt Nam.